Tất cả bài viết phù hợp với: "cà-phê-robusta"
Hiển thị các bài đăng có nhãn cà-phê-robusta. Hiển thị tất cả bài đăng
Tìm hiểu về cà phê Robusta hay còn gọi là cà phê vối


Tìm hiểu về cà phê Robusta hay còn gọi là cà phê vối

(danh pháp hai phần: Coffea canephora hoặc Coffea robusta) là cây quan trọng thứ hai trong các loài cà phê trên toàn thế giới. Khoảng gần 40% các sản phẩm cà phê được sản xuất từ loại cà phê này.
Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê đứng thứ hai thế giới, tuy nhiên lượng xuất khẩu cà phê Robusta lại lớn nhất thế giới (Khoảng gần 90% diện tích ở Việt Nam là trồng cà phê vối - Robusta, và được trồng chủ yếu ở Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk và các tỉnh Tây Nguyên). Các nước xuất khẩu cà phê quan trọng khác gồm Brasil, Indonesia, Ấn Độ, Malaysia, Uganda, Bờ Biển Ngà. Nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới là Brazil, tuy nhiên chủ yếu là cà phê Arabica, với sản lượng cà phê Arabica chiếm hơn ba phần tư, Ở Brazil cà phê vối được gọi với tên là Conilon.
Tìm hiểu về cà phê Robusta hay còn gọi là cà phê vối
Một vườn cà phê vối (Robusta) ở Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk

Cây cà phê vối

có dạng cây gỗ hoặc cây bụi, quả cà phê Robusta có hình tròn, hạt nhỏ hơn hạt cà phê chè (tức cà phê Arabica). Hàm lượng caffein trong hạt cà phê vối khoảng 2-4%, trong khi ở cà phê chè chỉ khoảng 1-2%.
Giống như cà phê chè, cây cà phê vối 3-4 tuổi có thể bắt đầu thu hoạch. Cây cho hạt trong khoảng từ 20 đến 30 năm. Cà phê vối ưa sống ở vùng nhiệt đới, độ cao thích hợp để trồng cây là khoảng 600 m. Robusta thuộc loại khỏe và cứng cáp, chúng có thể trồng được ở những độ cao thấp, có sức đề kháng cao đối với dịch bệnh. Do những đặc tính trên mà cà phê Robusta có sản lượng cao hơn, nhưng giá thành lại rẻ hơn. Nhiệt độ ưa thích của cây khoảng 24-29°C, lượng mưa khoảng trên 1.000 mm. Cây cà phê vối cần nhiều ánh sáng mặt trời hơn so với cây cà phê chè.
Tìm hiểu về cà phê Robusta hay còn gọi là cà phê vối

Cà phê Robusta có nguồn gốc từ các khu rừng cao nguyên ở Ethiopia, C. canephora mọc hoang dã tại Tây và Trung châu Phi, từ Liberia tới Tanzania và về phía nam tới Angola. Nó không được công nhận như một loài của chi Coffea cho tới tận năm 1897, sau loài Coffea arabica đến hơn 100 năm. 
Cà phê vối chứa hàm lượng caffein cao hơn. Giá cà phê Robusta thấp hơn so với giá cà phê chè (Arabica). Hiện nay gần 90% diện tích cà phê ở Việt Nam được trồng cà phê vối, 10% trồng cà phê chè, khoảng 1% còn lại được trồng cà phê mít (Coffea excelsa).
Theo Tổng cục Hải quan, năm 2017 tổng sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam đạt 1,4 triệu tấn, trị giá 3,2 tỷ USD, giảm 19% về lượng và giảm 2,7% về trị giá so với năm 2016. Năm 2017, giá cà phê xuất khẩu bình quân đạt 2.249 USD/tấn, tăng 20,1% so với năm 2016. 

Nguồn: ST tổng hợp

ca-phe-buon-ma-thuot-qua-trinh-hinh-thanh-phat-trien

Quá trình hình thành và phát triển Cà phê Buôn Ma Thuột

Cây cà phê du nhập vào Việt Nam khá sớm (từ năm 1857) thông qua một số linh mục thừa sai người pháp. Đầu tiên là giống cà phê chè (coffee arabica) được trồng thử nghiệm tại các Nhà thờ Thiên chúa giáo ở một số tỉnh phía Bắc sau đó mới phát triển dần vào Nam Tây Nguyên và Đông Nam bộ, nhưng cho đến nay, cả về quy mô và danh tiếng, không nơi nào ở Việt Nam có cà phê nổi tiếng trong và ngoài nước, đồng thời gắn với một vùng địa danh mang nhiều huyền thoại như cà phê Buôn Ma Thuột.

Với lợi thế là một vùng đất đỏ bazan màu mỡ, có những ưu thế đặc trưng về điều kiện tự nhiên, cao nguyên Buôn Ma Thuột không những là nơi cây cà phê sinh trưởng tốt, mà còn tạo nên hạt cà phê chất lượng cao, hương vị khác biệt so với nhiều vùng đất khác. Chính sự khác biệt đó là yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh của cà phê Buôn Ma Thuột và nơi đây đã sớm trở thành "tâm điểm" của ngành cà phê toàn vùng Tây Nguyên nói riêng, Việt nam nói chung, đặc biệt là đối với cà phê vối (coffee robusta).

Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế về tự nhiên, cũng cần điểm lại yếu tố lịch sử của ngành cà phê Đắk Lắk, bởi đây cũng là nhân tố góp phần làm nên danh tiếng của cà phê Buôn Ma Thuột, ngay từ lúc thăm dò để chuẩn bị xâm chiếm Tây Nguyên, các nhà thám hiểm và truyền giáo Pháp đã sớm nhận ra vùng đất này không chỉ có vị trí địa lý chiến lược ở miền Nam Đông Dương, mà còn có những tài nguyên hết sức quý giá có thể khai thác phục vụ chính quốc, trước hết là đất và rừng. Đặc biệt nơi đây có loại đất mà các nhà thám hiểm như Yersin, Giám mục Cassaigne, Linh mục Pierre Dourisboure...đều nhận định là loại đất tốt nhất thế giới, rất thích hợp cho việc mở các đồn điền trồng cây công nghiệp
Vì vậy, để độc chiếm Tây Nguyên về chính trị và kinh tế, năm 1893 Khâm sứ Trung kỳ Bu lô sơ (boulloche) ra lệnh đặt vùng đất này "dưới sự bảo hộ đặc biệt" của Pháp, nhằm mục tiêu nắm toàn bộ vấn đề an ninh, tiến tới khai thác tài nguyên đất đai phục vụ chính quốc. Ngày 02-11-1901, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định về "quyền bảo hộ và khai thác Tây Nguyên", mở đường cho tư bản Pháp vào lập đồn điền ngay sau đó đã có 8 trong số 12 đơn xin phép đã được công sứ Đắk Lắk chuẩn y trình lên Khâm sứ Trung kỳ duyệt đợt đầu, chủ yếu là xin khai thác khu vực lân cận phía Đông thị xã Buôn Ma Thuột. Tuy nhiên, do những điều kiện cụ thể (thiếu phương tiện và nhân công) nên ở Buôn Ma Thuột lúc bấy giờ chưa hình thành những đồn điền lớn, chủ yếu là lập một số nông trại quy mô vài chục mẫu để trồng thử nghiệm cây công nghiệp; trong đó trẩu và cà phê chè (coffee arabica) là những loại cây được đưa vào trồng thử nghiệm đầu tiên tại Buôn Ma Thuột, trước thời điểm toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập đơn vị hành chính tỉnh Đắk Lắk, vào ngày 22-11-1904.
Đến những năm 1912-1914, cây cà phê chè mới thực sự ghi dấu ấn tại Buôn Ma Thuột. Trong khoảng thời gian này hai Công ty nông nghiệp lớn nhất Đắk Lắk đã được chính quyền Pháp cho phép thành lập, đó là Công ty cao nguyên Đông Dương (compagnie des hauts plateaux indochinois - c.h.p.i) và Công ty nông nghiệp An Nam (compagnie agricole d'asie - c.a.d.a). hai Công ty này bao chiếm tới 30.000 ha đất, trải dài trên một vùng đất ba zan rộng lớn dọc hai bên quốc lộ 21 từ Buôn Ma Thuột đến km34 đường đi Nha Trang, với tổng số vốn đầu tư ban đầu là 66.000.000 phơ răng; trong đó diện tích cà phê trồng tập trung là 260 ha (c.h.p.i: 135 ha, c.a.d.a: 125 ha).
ca-phe-buon-ma-thuot-qua-trinh-hinh-thanh-phat-trien-2

Lượng cà phê thu được lúc này tuy còn rất ít nhưng được đưa về chính quốc chế biến, tiêu thụ và đem lại hiệu ứng không ngờ cây cà phê Buôn Ma Thuột trồng trên vùng đất tốt, khí hậu thích hợp, ở độ cao từ 400-500 mét đã cho sản phẩm tuyệt vời ngoài sự mong đợi của các công ty Pháp. Các nhà rang xay tại Pháp lúc bấy giờ đánh giá chất lượng và hương vị tự nhiên của cà phê Buôn Ma Thuột thơm đặc trưng và thể chất đậm đà hơn hẳn cà phê bờ biển ngà vốn đã nổi tiếng khắp Châu Âu. Vì thế, nhiều nhà tư bản và chủ ngân hàng của Pháp quyết định đầu tư mở đồn điền ở Buôn Ma Thuột.
Ngày 12-2-1925, để tiếp tục hợp thức hoá việc khai thác đất đai ở Tây Nguyên, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định về chế độ khai thác kinh tế ở Tây Nguyên, trọng tâm của nghị định này là định ra các nhượng địa (thực chất cướp không đất của người bản xứ) để cho tư bản Pháp vào đầu tư. ngay sau đó đã có thêm 26 đồn điền được thành lập ở khu vực Buôn Ma Thuột, với tổng diện tích dự kiến khai thác lên đến 200.000 ha; bao gồm:
+ Trên quốc lộ 21 có đồn điền ô-giê (auger) ở km47, diện tích 136 ha; đồn điền Mec-cu-ry (mercurio) km21, diện tích 222 ha; đồn điền Vơ-rec-ken (vererkene) km42, diện tích 82 ha; đồn điền Pa-đô-va-ni (padovani) km15, diện tích 160 ha; đồn điền Hê-ri-ông (herion) km35, diện tích 35 ha; đồn điền Ai-ten (aitain) km18, diện tích 22 ha; đồn điền Ha-ghen (hagen) km16, diện tích 89 ha; đồn điền Săng-tê (santé) km23, diện tích 39 ha.
+ Phía Nam Buôn Ma Thuột có đồn điền Mô-rít (morit) 10 ha và đồn điền Mai-giô (maillo), diện tích 20 ha.
+ Trên hướng Mêwan có đồn điền Ac-pê-ra (acpera), diện tích 20 ha; đồn điền Société Civile de BanMeThuot km7, diện tích 278 ha; sau này có thêm đồn điền Société Du Domaine De Chu Sue km9, diện tích 283 ha; đồn điền Société agricole d' eatul, km16 diện tích 240 ha.
+ Trên hướng đi lạc thiện có đồn điền Cô-rô-nen (coronen) diện tích 73 ha; đồn điền Bơ-rô-giơ (broger) diện tích 28 ha; đồn điền Giô-đôn (godon) 36 ha.
+ Khu vực Buôn Hồ có đồn điền Rơ nê rô-si (rene rossi), diện tích 612 ha.
Tại các đồn điền này, cây cà phê đã được giới chủ pháp đầu tư trồng ngày càng nhiều; quy mô lớn hơn cả chè, cao su, cây ăn trái và nhiều loại cây trồng khác. ngoài ra, có một người dân tộc ê đê (là thành viên của hội đồng kinh tế an nam) tự mình khai phá 625 ha đất bazan và trồng thành công 125 ha cà phê. (sơ đồ các đồn điền xem phần phụ lục )
Đến năm 1931, tổng diện tích cà phê ở Đắk Lắk (tập trung chủ yếu ở khu vực buôn ma thuột) đã lên đến 2.130 ha (riêng đồn điền c.a.d.a là 1.000 ha) đứng thứ tư trong cả nước; trong đó 51% diện tích là cà phê chè, 33% cà phê vối, còn lại là cà phê mít. việc trồng, chăm sóc cà phê trong các đồn điền ngay từ những năm này đã mang dấu ấn của lối canh tác công nghiệp và đạt trình độ tổ chức quản lý cũng như đầu tư thâm canh khá cao trong tài liệu "Địa chí tỉnh Đắk Lắk" viết năm 1930, ấn hành năm 1931 tác giả người Pháp Mon Fleur đã mô tả hoạt động của một số đồn điền như sau:
" Công ty nông nghiệp An Nam có một nhượng địa rộng 8.000 mẫu tây, khai thác được 1.800 mẫu, trồng cà phê 1.000 mẫu, chè xanh 800 mẫu, nằm ở cây số 24 đến cây số 34 đường An Nam... có những cơ xưởng lớn sửa chữa máy móc, nhà để xe, kho tàng, nhà ở của giám đốc, chủ đồn điền, trưởng phòng nhân sự, tất cả đều rộng rãi, an toàn và có điện thắp sáng. nơi ăn ở của công nhân bản xứ cũng được chăm sóc tốt, tập trung trong hai ngôi làng lớn là Ea Knuêk và Ea Yông; mỗi làng có chợ, trạm xá, nơi cung cấp nước đảm bảo sức khỏe cho công nhân...các đồn điền đều có triển vọng tốt đẹp, cây cà phê trồng và chăm sóc tốt, cao đều 1,4 mét, các đồi chè xanh gốc Nam Dương trồng vào tháng giêng năm 1921 vượt quá 2 mét".
Một vài tư liệu mô tả trên cho thấy việc trồng cà phê lúc này đã được giới chủ pháp rất chú trọng và có triển vọng trở thành một ngành trồng trọt chủ lực trên vùng đất buôn ma thuột. với các điều kiện tự nhiên phù hợp, được trồng và chăm sóc tốt nên chất lượng cà phê ngày càng tăng lên, kích thước hạt lớn, chất lượng nước đậm đà rất được ưa chuộng ở Pháp và một số nước Châu Âu. Ngoài hương vị thơm ngon đặc trưng tự nhiên, thời kỳ này cà phê Buôn Ma Thuột còn nổi danh với một loại cà phê mang tính huyền thoại là "cà phê chồn" do đặc điểm để cà phê chín mọng gần hết mới thu hoạch, nên một loại chồn màu xám có tên địa phương là mija thường ăn những trái cà phê ngon nhất, sau đó thải ra phần nhân đã được hấp thụ các chất trong cơ thể nó; người ta lấy về rửa sạch, phơi khô,xat vỏ thóc, rang xay, tạo nên một loại cà phê danh bất hư truyền ít người được thưởng thức.
Tuy nhiên, thời kỳ này do bệnh gỉ sắt phát triển mạnh trên cây cà phê chè, làm giảm đáng kể năng suất, nên các chủ đồn điền pháp lần lượt chuyển sang trồng loại cà phê vối (cà phê chè chỉ còn khoảng 1% diện tích),năng suất cao, chất lượng thơm ngon hơn. chính vì vậy cà phê vối robusta, được chọn lọc qua nhiều thập kỷ, đã trở thành cây cà phê chủ lực ở vùng đất Buôn Ma Thuột bởi khả năng thích nghi với điều kiện tự nhiên, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao của nó. Đến năm 1959 đã có 49 đồn điền trồng cà phê ở khu vực Buôn Ma Thuột (bao gồm cả Buôn Hồ, Phước An) với tổng diện tích trên 5.200 ha; trong đó riêng đồn điền c.h.p.i là 576 ha. ngoài các đồn điền cũ do Pháp kiều quản lý, cũng đã dần xuất hiện một số đồn điền trồng cà phê do người dân tộc bản xứ và người kinh khai phá, làm chủ. Đến năm 1975, tổng diện tích cà phê ở Đắk Lắk đã tăng lên 8.600 ha, cho sản lượng hàng năm trên 11.000 tấn, hầu hết là cà phê vối robusta. trong đó, các đồn điền cà phê danh tiếng như công ty cao nguyên Đông Dương (c.h.p.i), an-đơ-rây guy-be (andrei guibert), Vina café, Société Agricole d' eatul, Société du domaine de chu sue, Guy-be ba-to-li (guibert batolli), Ô-tơ-roa-xơ (aux trois soeurs) chiếm giữ đến 68% diện tích; các đồn điền nhỏ chiếm 18% diện tích; 75 trang trại hộ cá thể chiếm 14% diện tích cà phê toàn tỉnh. Tuy xuất khẩu chưa nhiều, nhưng thông qua con đường du lịch, hạt cà phê buôn ma thuột đã đến được nhiều quốc gia trên thế giới và nhiều người thực sự ngưỡng mộ chất lượng và hương vị thơm ngon của nó .
Sau ngày Miền Nam giải phóng, tỉnh Đắk Lắk đã sớm quan tâm phát triển ngành sản xuất cà phê. ngày 12-11-1975, Ủy ban Nhân dân cách mạng tỉnh Đắk Lắk ra quyết định trưng thu tài sản, đất đai của các đồn điền; đồng thời vận động 75 hộ cá thể hiến lại 1.196 ha cà phê; trên cơ sở đó thành lập các nông trường cà phê như: thắng lợi, ea hồ, 10-3, đức lập do Công ty Quốc doanh nông nghiệp tỉnh trực tiếp quản lý, đồng thời một loạt các nông trường cà phê quốc doanh thuộc Trung ương quản lý cũng ra đời trên địa bàn cùng với sự hợp tác của một số quốc gia trong khối Đông Âu (cũ) như Đức, Tiệp Khắc, Liên Xô (cũ) đã đến hợp tác để khai thác vùng cà phê với lợi thế về đặc trưng về tự nhiên và danh tiếng vốn có của nó.
Từ sau năm 1986, nhờ chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, tỉnh Đắk Lắk chủ trương đầu tư trồng mới, thâm canh rộng rãi trong nhân dân, từ đó bắt đầu hình thành các vùng tập trung chuyên canh cà phê lớn ở thành phố Buôn Ma Thuột và các huyện Krông Păc, Cư M'gar, Ea h'leo, Đăk Mil, Krông Ana, Krông Búk, Krông Năng và Ea kar các vùng chuyên canh này chiếm 86% diện tích và 89% sản lượng cà phê toàn tỉnh.
Với bề dày về truyền thống và tích lũy kinh nghiệm hơn 70 năm của ngưòi dân trồng cà phê nơi đây, cà phê Buôn Ma Thuột đã hội đủ các yếu tố bền vững và ngày càng khẳng định vị trí vững chắc trong nền sản xuất hàng hoá của tỉnh Đắk Lắk ( giá trị sản phẩm cà phê hàng năm chiếm 35% gdp và 85% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh) sản phẩm cà phê vối Robusta đã trở thành biểu tượng và là niềm tự hào của tỉnh Đắk Lắk nói chung, vùng địa danh Buôn Ma Thuột nói riêng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Theo nguồn: lehoicaphe.vn